Thực đơn
Thi_Hội Việt NamTừ đời Lê Thánh Tông các khoa thi Hương được tổ chức vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu và thi Hội vào năm sau Sửu, Mùi, Thìn, Tuất (dựa theo quy định thi cử của Trung Quốc). Sau khi thí sinh đỗ khoa thi Hương thì năm sau mới được dự thi khoa thi Hội. Thi đỗ khoa thi Hội rồi mới được phép dự thi Đình.
Theo quy định từ năm 1434, thi Hội tương tự như thi Hương cũng có 4 kỳ.
Khoa thi này được gọi là "Hội thi Cống sĩ" (tức là người đã đỗ thi Hương tụ hội lại ở kinh đô để thi) do đó gọi là thi Hội.
Trước năm 1442 thí sinh đỗ cả bốn kỳ được công nhận là trúng cách thi Hội. Nếu không tiếp tục thi Đình thì vẫn chỉ có học vị Cống sĩ. Chỉ sau khi thi Đình, người trúng cách thi Hội mới được xếp loại Tiến sĩ và mới được công nhận là có học vị Tiến sĩ. Từ năm 1442 thí sinh đỗ thi Hội mới có học vị Tiến sĩ (tức Thái học sinh - tên dân gian là ông Nghè).
Như vậy, đỗ thi Hội tức là Tiến sĩ Nho học (song phải thi Đình để xếp loại). Ở Việt Nam cần tránh lầm lẫn Tiến sĩ Nho học (cả nước toàn bộ thời phong kiến khoa bảng kể từ 1075 đến 1919 tính cả Tiến sĩ và Phó bảng-Ất Tiến sĩ mới có khoảng 3000 người có học vị này) với Tiến sĩ (năm 2016, Việt Nam có hơn 24000 người có học vị này).
Vào thời nhà Nguyễn những thí sinh thiếu điểm để đỗ tiến sĩ có thể được cứu xét và cho học vị Phó bảng.
Dưới thời Pháp thuộc chính quyền Bảo hộ xúc tiến tìm cách cải tổ lề lối khoa cử. Thi Hội vào thập niên 1910 như khoa Quý Sửu năm 1913 thì thi Hội có bốn phần, gọi là trường nhất, trường nhì, trường ba và trường tư.[1]
Thí sinh phải đủ điểm đỗ trường nhất và trường nhì, tức có tên yết trên bảng thì mới vào thi trường ba và trường tư.[1]
Thực đơn
Thi_Hội Việt NamLiên quan
Thi Hội Thi hàiTài liệu tham khảo
WikiPedia: Thi_Hội http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/viet-nam-co-...